Giữ lửa cho ca trù: Hồi sinh di sản trong lòng thời đại mới

16/08/2025 16:30

Trong một căn nhà cổ giữa phố Hàng Bạc, Hà Nội, tiếng đàn đáy ngân vang cùng giọng hát trong veo của người nghệ nhân làm sống dậy không gian nghệ thuật từng rực rỡ bậc nhất trong lịch sử văn hóa dân tộc - ca trù.

Nhưng phía sau vẻ kiêu bạc, tinh tế ấy là một thực tại đầy trăn trở: Làm sao để ca trù không chỉ sống trong hoài niệm, mà còn tìm lại được ánh hào quang vốn có?

Viên ngọc quý của hồn Việt

Hát ca trù còn có các tên gọi khác như: Hát ả đào, đào nương ca, cô đầu (ở các ca quán), nhà trò (đình, đền, miếu), nhà tơ (dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), cửa quyền (trong cung phủ). Sự độc đáo của ca trù nằm ở chỗ nó là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, phối hợp đa dạng và nhuần nhuyễn giữa thi ca, âm nhạc và đôi khi có cả múa và trò diễn. Tên gọi “ca trù” xuất phát từ chính hình thức diễn xướng của loại hình này. Nó độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ riêng và thể thơ riêng biệt.

Ca trù không ồn ào, không đại chúng. Một buổi ca trù đúng nghĩa đòi hỏi sự kết hợp ăn ý giữa giọng hát cô đầu, tiếng phách giòn giã và âm trầm đục của đàn đáy. Lời ca là thơ văn chọn lọc, thường do chính các danh sĩ thời xưa sáng tác. Đặc biệt, thể thơ hát nói - vốn gắn liền với ca trù - từng là “sân chơi” của nhiều tên tuổi lớn như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…

Cố GS Trần Văn Khê (1921 - 2015), người đã dành gần trọn cả cuộc đời cống hiến cho nền âm nhạc dân tộc, từng ví ca trù là “tinh hoa bác học của dân tộc Việt”, thể hiện sự sang trọng trong tâm hồn người Việt - một sự quý phái mà không phô trương. Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền cũng từng phân tích: “Ả đào là thể loại ở tầng bậc kỹ thuật cao, đỉnh chóp với hệ âm luật phức tạp, kỳ vĩ và hóc hiểm nhất”.

Chính giá trị ấy đã khiến ca trù được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại vào năm 2009. Nhưng vinh danh chỉ là bước đầu. Sau hơn một thập kỷ, ca trù vẫn đang vật lộn để tìm lại chỗ đứng trong đời sống hiện đại.

NSƯT Bạch Vân - người đã dành gần cả cuộc đời để giữ gìn văn hóa ca trù, đồng thời góp công xây dựng nhiều câu lạc bộ ca trù ở những địa phương có truyền thống về loại hình nghệ thuật này, kể lại: “Nói khó khăn thì quá nhiều”. Giọng bà chùng xuống, đôi mắt ánh lên những ký ức.

Ở thời điểm đã có thể ngồi chung chiếu với các thầy của mình, cũng là lúc bà nhận ra rằng: Trong khi ca trù còn chưa kịp được công nhận, thì các nghệ nhân tài danh đều đã ở tuổi gần đất xa trời; lớp người kế cận lại chẳng còn mấy ai. Bên cạnh đó là sự thiếu tư liệu nghiên cứu, sự mai một và thất truyền của các ngón nghề từ những nghệ nhân lớn tuổi - và đau lòng hơn cả là những định kiến, những cái nhìn thiếu thiện cảm từ xã hội.

“Ngay cả trong cơ quan, bạn bè, xã hội, người ta bảo: Cô phục hồi cái thú ăn chơi à? Cái cô đầu Khâm Thiên à? Cái lối đàn điếm à?” - những lời lẽ ấy như những mũi dao vô hình xoáy sâu vào tâm can người nghệ sĩ tâm huyết, người đang cố gắng làm một việc lớn lao cho văn hóa dân tộc.

Để có được nguồn kinh phí ít ỏi duy trì hoạt động, tiếp tục thắp lên ngọn lửa ca trù, nghệ sĩ Bạch Vân đã không quản ngại bất cứ công việc gì, từ lao động chân tay vất vả, gánh từng thùng nước, đến buôn bán ngược xuôi; những ngày tháng phải lên tận Lạng Sơn để buôn hồng ngâm, hay ngược lên huyện Yên Châu cũ (Sơn La) để tìm mua xoài.

Bà nghẹn ngào kể về số phận của những nghệ nhân ca trù tài hoa nhưng bạc mệnh. NSƯT Bạch Vân nhắc đến cụ Đào ở thôn Lỗ Khê, hay cụ Chu Văn Du - kép đàn, Phó quản ca giáo phường Khâm Thiên. Những nghệ nhân khác như bà Quách Thị Hồ phải “đi bán nước chè, bán phở”, bà Nguyễn Thị Trúc “về quê giữ ruộng, buôn hàng xén”, cụ Phạm Thị Mùi “đi làm ruộng”. Sự mai một của các nghệ nhân chính là sự mất mát lớn lao cho nghệ thuật này.

Nhưng xen kẽ với những nốt trầm buồn ấy là những khoảnh khắc ấm áp. Đó là khi bà được các cụ nghệ nhân mở lòng tin tưởng, truyền dạy những ngón nghề độc đáo. Bà đã kiên trì dạy ba lớp ca trù ở Lỗ Khê (Hà Nội), mỗi lớp 18 học sinh. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc của khán giả, cả người Việt Nam và bạn bè quốc tế, khi họ được lắng nghe, được chìm đắm trong những làn điệu ca trù.

giu-lua-cho-ca-tru-hoi-sinh-di-san-trong-long-thoi-dai-moi-3.jpg Một tiết mục biểu diễn ca trù của ba ca nương Câu lạc bộ Ca trù Thăng Long ở đền Quan Đế (Hà Nội). Ảnh: VNP

Sứ mệnh gìn giữ, lan tỏa và sáng tạo

Ca trù đã trải qua một hành trình đầy biến động. Những đứt gãy lịch sử cùng sự thiếu tương thích với nhịp sống hiện đại khiến loại hình nghệ thuật từng “vang bóng một thời” này đứng trước nguy cơ mai một.

Một trong những trở ngại lớn nhất là sự biến mất của không gian diễn xướng truyền thống - nơi ca trù từng sống trong lòng văn hóa dân gian. Những chủ thể sáng tạo ca trù ngày xưa - các thi sĩ, văn nhân lỗi lạc như Lê Đức Mao, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh - giờ đây không còn hiện diện trong đời sống nghệ thuật đương đại.

Bên cạnh đó, người học và sáng tạo ca trù cần có nền tảng văn hóa Hán học sâu rộng - điều không dễ có được trong bối cảnh hiện nay. Việc học ca trù cũng đầy gian nan. Nghệ nhân Bạch Vân chia sẻ: Có khi chỉ một bài hát, người học phải mất vài năm để luyện được cách nhả chữ thuần thục, vừa ý thầy dạy; thậm chí có trường hợp, cả tháng trời trôi qua mà vẫn chưa hoàn thiện nổi một câu hát.

Theo NSƯT Bạch Vân, điều quan trọng nhất là giúp các bạn trẻ thấy rằng ca trù không phải là thứ gì quá xa vời. “Khi người trẻ nhận ra họ có thể tiếp cận nó bằng cảm xúc thật, thì họ sẽ ở lại”. Do đó, bà không chỉ dạy hát, dạy đàn, mà còn cố gắng giải thích, giới thiệu lịch sử, nghệ thuật của ca trù cho khán giả, đặc biệt là những người trẻ.

Giữa dòng chảy hiện đại, việc giữ gìn di sản không còn là chuyện hoài cổ, mà là hành động hướng tới tương lai. Thực trạng đáng báo động về nguy cơ mai một của ca trù - một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của dân tộc - đang đặt ra yêu cầu cấp bách về một chiến lược bảo tồn và phát triển toàn diện, mang tính đột phá. Những nỗ lực đơn lẻ, manh mún và các chương trình mang tính phong trào, dù đáng ghi nhận, tỏ ra chưa đủ sức vực dậy một loại hình nghệ thuật từng có vị thế vàng son.

Giới chuyên môn và những người nặng lòng với ca trù đều chung nhận định: Đã đến lúc cần một “cuộc cách mạng” trong tư duy và hành động, một cách tiếp cận đa chiều, đồng bộ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để ca trù thực sự trở về đời sống, chứ không chỉ tồn tại lay lắt trong không gian biểu diễn hạn hẹp.

Một trong những giải pháp mang tính nền tảng, có tầm nhìn dài hạn chính là đưa ca trù một cách bài bản và hấp dẫn vào hệ thống giáo dục quốc dân. Thay vì chỉ là những giới thiệu sơ lược, rời rạc, cần xây dựng các chương trình, môn học trải nghiệm văn hóa ca trù chính thức, phù hợp với từng cấp học, từ tiểu học đến đại học. Nội dung không chỉ dừng lại ở lý thuyết suông về lịch sử, các làn điệu, mà phải chú trọng thực hành, tương tác.

Hãy tưởng tượng những giờ học mà học sinh được trực tiếp lắng nghe tiếng phách, tiếng đàn đáy, được thử gõ phách, ngâm nga những câu hát cơ bản, hay thậm chí tham gia dàn dựng những hoạt cảnh ca trù nho nhỏ. Việc này không chỉ giúp thế hệ trẻ tiếp cận, thẩm thấu vẻ đẹp độc đáo của ca trù một cách tự nhiên, mà còn gieo mầm tình yêu, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm gìn giữ di sản của cha ông. Đây chính là cách tạo ra một lớp công chúng am hiểu và một thế hệ nghệ sĩ kế cận tiềm năng cho tương lai.

Trong bối cảnh ngành du lịch đang tìm kiếm những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa, việc phát triển các tour trải nghiệm nghệ thuật truyền thống với ca trù là điểm nhấn chủ đạo mở ra một hướng đi đầy triển vọng.

giu-lua-cho-ca-tru-hoi-sinh-di-san-trong-long-thoi-dai-moi-2.jpg NSƯT Bạch Vân biểu diễn tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường K73, Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Nghệ An. Ảnh: INT
giu-lua-cho-ca-tru-hoi-sinh-di-san-trong-long-thoi-dai-moi-5.jpg Việt Nam đã xuất bản nhiều cuốn sách giới thiệu về nghệ thuật ca trù đến du khách trong và ngoài nước. Ảnh: VNP

Không chỉ là những buổi biểu diễn xen kẽ, cần thiết kế các gói sản phẩm du lịch chuyên sâu, nơi du khách được đắm mình trong không gian ca trù đích thực: Từ việc tìm hiểu lịch sử hình thành, ý nghĩa các thể cách, vai trò của từng nhạc cụ, đến giao lưu trực tiếp với nghệ nhân, thậm chí tham gia một lớp học ca trù cấp tốc.

Những “địa chỉ đỏ” của ca trù như các giáo phường cổ, nhà hát truyền thống có thể trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước. Sự thành công của mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập bền vững cho nghệ nhân và các tổ chức ca trù, mà quan trọng hơn, nó đưa ca trù ra khỏi không gian biểu diễn hạn chế, quảng bá mạnh mẽ giá trị của di sản, đồng thời khẳng định sức sống và khả năng đóng góp của văn hóa truyền thống vào sự phát triển kinh tế - xã hội.

Mọi chiến lược, kế hoạch dù hoàn hảo đến đâu cũng sẽ trở nên vô nghĩa nếu thiếu đi nhân tố cốt lõi: Những nghệ nhân ca trù - “báu vật sống” đang ngày đêm gìn giữ và trao truyền ngọn lửa di sản. Thực tế phũ phàng, như lời tâm sự xót xa từ chính người trong cuộc, là nhiều nghệ nhân vẫn phải chật vật mưu sinh bằng đủ thứ nghề tay trái, không thể toàn tâm toàn ý cống hiến cho nghiệp đàn, phách. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật, mà còn làm gián đoạn quá trình truyền dạy cho thế hệ kế cận.

Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống chính sách đầu tư bài bản, dài hạn, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho nghệ nhân là yêu cầu cấp bách và mang tính sống còn. Đó không chỉ là các khoản hỗ trợ tài chính, phụ cấp nghề nghiệp, mà còn là sự tôn vinh xứng đáng, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong công tác nghiên cứu, sưu tầm, truyền dạy và biểu diễn. Chỉ khi nghệ nhân có thể “sống được bằng nghề”, họ mới thực sự yên tâm “giữ lửa” và trao truyền di sản cho mai sau.

Con đường phục hưng ca trù chắc chắn sẽ còn nhiều gian nan, đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược, sự vào cuộc quyết liệt của các cấp quản lý văn hóa, sự chung tay của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và trên hết là tình yêu, ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng.

Với một chiến lược toàn diện, lấy nghệ nhân làm trung tâm, lấy giáo dục làm nền tảng, lấy du lịch làm đòn bẩy và lấy sáng tạo làm động lực, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn cho ca trù - nơi di sản ngàn năm tuổi này không chỉ được bảo tồn, mà còn tiếp tục tỏa sáng, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc.

Bảo tồn không có nghĩa là ‘đóng băng’ di sản. Để ca trù thực sự sống trong lòng công chúng đương đại, đặc biệt là giới trẻ, việc khuyến khích sáng tạo, làm mới trên nền tảng tôn trọng những giá trị cốt lõi là vô cùng cần thiết. Cần mở ra những sân chơi, cuộc thi, liên hoan ca trù với tinh thần đổi mới, khuyến khích các thử nghiệm kết hợp ca trù với các yếu tố nghệ thuật hiện đại một cách tinh tế, có chọn lọc. Đó có thể là việc làm mới phần ca từ, phối khí, hoặc kết hợp ca trù với các loại hình nghệ thuật khác như múa đương đại, nhạc điện tử (một cách cẩn trọng và có định hướng).