Đất học Liên Hà 10 quan Tiến sĩ

16/08/2025 13:00

Xã Liên Hà, huyện Đông Anh (nay là xã Thư Lâm, Hà Nội) không chỉ là vùng đất cổ với những dấu tích thời Vua Hùng mà còn là vùng đất học nổi tiếng xuyên suốt hàng chục thế kỷ với 10 vị đại khoa.

Đất cổ thời Hùng Vương

Là một xã thuộc tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, xã Liên Hà là địa phương quần tụ của nhiều thôn làng lớn: Hà Vĩ, Đại Vĩ, Hà Lỗ, Hà Phong… Theo tư liệu của PGS.TS Bùi Xuân Đính (Viện Dân tộc học và Tôn giáo học), riêng làng Hà Vĩ thời phong kiến gồm 3 cộng đồng dân cư có tên Nôm “Kẻ Quậy” là: Quậy Cả (tên chữ là Đại Vĩ), Quậy Sau (Châu Phong) và Quậy Rào (Giao Tác) thuộc tổng Hà Lỗ.

dat-hoc-lien-ha-10-quan-tien-si-1.jpg Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1463), ghi danh Tiến sĩ Dương Văn Đán – người đầu tiên ở Liên Hà đỗ đại khoa.

Tương truyền, vào năm 208 trước Công nguyên, An Dương Vương định đô ở Cổ Loa đã ra lệnh cho dân phải dời đi để lấy đất xây đắp loa thành. Dân không muốn đi, nhưng vẫn phải tuân theo phép nước nên đã tâu với vua rằng: “Cứ cho chúng tôi xuống khu đất trũng kia, dù khổ mấy cũng cam lòng”.

Do thái độ ấm ức hậm hực của dân khi tâu, vua An Dương Vương bảo: “Đó là dân cà quẫy” và chấp nhận cho dân xuống lập trang Hà Hào - một vùng trũng thấp vốn là đoạn sông cụt của sông Hoàng Giang. Từ lời nói của vua, dân quanh vùng gọi trang Hà Hào là “Cà Quẫy”, lâu ngày gọi chệch là “Quậy”.

Khi chuyển xuống lập nghiệp ở vùng đất trũng, dân Cổ Loa (Chạ Chủ) đã định cư đầu tiên ở xóm Nguyên Hương, và dòng họ đầu tiên là họ Vũ. Tiếp đến là các họ Lê, Nguyễn, Ngô, Dương, Phạm… lập thành cụm dân cư mang tên Quậy Cả, tên chữ là Đại Vĩ. Tại nhà thờ dòng họ Vũ ở Đại Vĩ trước đây còn có đôi câu đối: Thiên vị tài bồi dương ngã Vũ/ Thế truyền tác nghiệp tự Nguyên Hương (nghĩa là: Trời làm giàu cho họ Vũ ta/ Đời đời truyền lưu ở xóm gốc).

Từ Quậy Cả - Đại Vĩ, dân làng Chạ Chủ - Cổ Loa mở mang làng xón ra xung quanh, thêm hai cụm dân cư mới hình thành. Đó là làng Quậy Sau, tên chữ là Châu Phong và Quậy Rào, tên chữ là Giao Tác. Cả ba thôn làng ấy hợp thành trang Hà Hào, gọi chung là ba làng Quậy.

Chính vì thế, theo truyền thống từ xa xưa, dân Chạ Chủ - Cổ Loa tôn dân làng Quậy là anh cả, khi làng Cổ Loa mở hội (mồng 6 tháng Giêng), các hương kỳ, lý dịch, các bậc cao niên làng Quậy được mời về dự và làm lễ nhập tịch ở chiếu trên; dân làng Quậy đến chợ Sa (Cổ Loa) không phải mua vé.

Còn làng Hà Lỗ từ xưa đã là một khối thống nhất, đến giữa thế kỷ 19 chia thành 3 cụm dân cư có tính chất như những làng độc lập, với đình, chùa, đền miếu, tổ chức phe giáp, lệ tục riêng, đều có tên Nôm là “Giỗ”, gồm: Giỗ Đông, Giỗ Dong và Giỗ Hương thuộc tổng Hà Lỗ. Làng Hà Lỗ được khai phá từ rất sớm.

Việc các làng đều thờ các vị thần gắn liền với thời kỳ lập nước sơ khai là một trong những tư liệu minh chứng cho điều đó. Vào những năm 1974 - 1978, tại làng đã phát hiện được lọ gốm cổ thời Đông Hán có niên đại cách ngày nay xấp xỉ 2.000 năm. Dưới chân thành Cái Cao ở Hà Phong đã tìm thấy chiếc trống đồng cỡ nhỏ - một trong những sản phẩm tiêu biểu nhất của văn hóa Đông Sơn.

Liên Hà 10 vị đại khoa

Nằm trong huyện Đông Ngàn xưa, các làng Hà Vĩ, Đại Vĩ, Hà Lỗ, Hà Phong sớm có truyền thống hiếu học và khoa bảng. Tính trọn vẹn các làng của xã Liên Hà cũ thì có đến hàng chục người đỗ đại khoa, làm quan lớn trong triều ngoài nội, như: Dương Văn Đán, Lương Hối, Dương Bính, Đỗ Túc Khang, Ngô Tông Củ, Nguyễn Trác, Nghiêm Văn Hậu, Viêm Nghĩa Lộ, Ngô Chấp Trung, Dương Cảo.

Theo các nguồn sử liệu đăng khoa, Dương Văn Đán chính là người khai khoa của Liên Hà. Các nguồn sử liệu triều Lê ít ghi chép về ông, song tại Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi đời vua Lê Thánh Tông (1463), do Đông các Hiệu thư Đào Cử soạn cho biết, Dương Văn Đán đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) - cùng khoa với Trạng nguyên Lương Thế Vinh.

Trong bản chú thích của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) ghi rõ: Dương Văn Đán (?-?) người xã Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn (thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Ông làm quan Thừa chính sứ và được cử đi sứ (năm 1486) sang nhà Minh (Trung Quốc)”.

Văn bia khoa thi này cũng cho biết, “vận hội văn chương tựa sao sáng, nhân tài như mây họp. Gặp năm có khoa thi lớn, kẻ sĩ ca bài Lộc minh mà đến, đông tới 1.400 người, để cùng nhau đua tranh tài nghệ trong chốn xuân vi, hạng xuất sắc chọn được 44 người…

Ban cho bọn Lương Thế Vinh trở xuống đỗ Tiến sĩ cập đệ, xuất thân thứ bậc có khác nhau. Vua ngự điện Kính Thiên, cho gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan bộ Lễ rước bảng vàng ra yết ngoài cửa Đông Hoa để cho các sĩ tử xem tên. Lại ban áo mũ, yến tiệc để tỏ ý yêu mến đặc biệt, ơn sủng thật trọng hậu”.

Người thứ 2 ở Liên Hà đỗ đại khoa là Lương Hối. Một số nguồn sử cho rằng, ông đỗ cùng khoa với Dương Văn Đán, tuy nhiên văn bia Tiến sĩ khoa thi năm Quý Mùi (1463) không có tên Lương Hối. Tra bảng tên khoa thi, Lương Hối đỗ sau 3 năm so với Dương Văn Đán, tức vào năm Bính Tuất (1466). Vào khoa thi này, Lương Hối đỗ thứ 5 trong số 8 người hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Sau này, ông làm Vương phó (thầy dạy học các vuơng tử).

Sau Lương Hối là Tiến sĩ Dương Bính đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Tuất (1478), làm quan đến chức Thừa chính sứ. Dương Bính là tằng tổ của Tiến sĩ Dương Cảo.

Ngô Tông Củ đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Tuất đời Lê Tương Dực (1514), làm quan Lễ bộ Tả Thị lang. Trong văn bia đề danh Tiến sĩ, phần chú thích của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ghi Ngô Tông Củ là Ngô Tòng Củ. Sau Ngô Tông Củ là Nghiêm Văn Hậu đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Dần đời Lê Chiêu Tông (1518), làm quan Tham chính sứ.

20 năm sau, vào thời nhà Mạc, tại Liên Hà có Nguyễn Trác đỗ khoa Mậu Tuất đời Mạc Đăng Doanh (1538), làm quan đến chức Hiến sát sứ. Cùng thời này, Viêm Nghĩa Lộ đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu đời Mạc Phúc Hải (1541), làm quan Hàn lâm viện Hiệu thảo.

Ngô Chấp Trung gốc làng Đại Vĩ, trú quán thôn Hà Lỗ, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu đời Mạc Phúc Hải (1553), làm quan Hiến sát sứ. Theo gia phả họ Ngô, Ngô Chấp Trung là con trai Hoàng giáp Ngô Tòng Củ, cháu nội Thang tiên tổ Ngô Trí Quang - thủy tổ họ Ngô xã Liên Hà.

Dương Cảo - cháu tằng tôn Tiến sĩ Dương Bính, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn đời Lê Thần Tông (1628), làm quan Tế tửu Quốc Tử Giám. Theo văn bia đề danh Tiến sĩ, trong khoa thi năm 1628, Dương Cảo đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), tên đứng thứ nhất. Khoa thi này, Giang Văn Minh đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa).

dat-hoc-lien-ha-10-quan-tien-si-2.jpg Đền Đồng Thụ tại Thái Nguyên thờ con gái Tiến sĩ Đỗ Túc Khang – bà Đỗ Thị Mỹ Mai.
dat-hoc-lien-ha-10-quan-tien-si-4.jpg Đình Hà Lỗ thuộc Liên Hà (nay là xã Thư Lâm, Hà Nội).

Họ Đỗ khoa danh, 4 anh em đều đỗ Tiến sĩ

Ngoài ra, Liên Hà còn một nhà khoa bảng nổi tiếng tên là Đỗ Túc Khang (1470 - 1523), nguyên có tên là Đỗ Vĩnh Khang. Nếu xếp thứ tự danh sách đỗ đạt ở Liên Hà, Tiến sĩ Đỗ Túc Khang tuy không phải là người khai khoa nhưng là một trong số những vị đại khoa đỗ đạt sớm trong vùng.

Các nguồn sử liệu cho biết, năm 23 tuổi Đỗ Túc Khang đi thi Hương trúng tam trường, năm 26 tuổi ông lại đi thi Hương trúng Tứ trường, năm 27 tuổi niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) ở khoa thi Bính Thìn, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân và được vua ngự bút cho đổi tên là Đỗ Túc Khang.

Năm đầu thời Cảnh Thống (1498) ông được ban chức Tri huyện huyện Thủy Đường phủ Kinh Môn, ba năm sau được thăng làm Giám sát Ngự sử đạo Hải Dương. Năm năm sau được thăng làm Đoán sự vệ Kim Ngô. Vào dịp Tết Nguyên đán năm thứ 2 đời Đoan Khánh do không biết nên tên Chưởng quan vệ để ngựa chạy sổng mất nên vì việc này mà ông bị giáng chức.

Mấy năm sau được xá tội cho phục chức làm Đoán sự vệ Cẩm y. Năm năm lại được thăng làm Hiến sát sứ đạo Hưng Hoá. Sáu năm được thăng làm Hiến sát sứ đạo Sơn Nam. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) được thăng làm Lưu tướng quân Đoán sự vệ Kim Ngô.

Năm Hồng Thuận thứ 4 (1512) được thăng làm Thừa tham hộ đạo Hải Dương, năm Hồng Thuận thứ 5 (1513) được cử giữ chức Tham chính đạo Sơn Tây, năm Hồng Thuận thứ 7 (1515) tháng Giêng cha mẹ mất nên phải về chịu tang. Đến tháng 10 năm đó vâng theo mật sắc đem quân đến vùng Kinh Bắc đánh giặc. Đến tháng 12 lại vâng mệnh giữ chức Thừa ti Tham chính đạo Sơn Tây đến vùng Kinh Bắc đóng doanh trại.

Đầu năm Quang Thiệu lại vâng mệnh sắc chỉ đi đánh giặc lại lập được công trạng và được ban thưởng cho ở lại doanh trại đó. Hàng ngày các quan Thừa chính nhị ti cùng các quan lại ở các phủ huyện đều đến báo cáo công việc.

Sau hai năm dẹp xong giặc ông được phong chức Tán trị Thừa chính sứ ty các xứ Kinh Bắc. Ông đã dẹp yên được bọn Nguyễn Công Độ, Nguyễn Thông, Nguyễn Nùng ở các vùng vì thế được thăng làm Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc Đại phu, kiêm chức Tán trị Thừa chính sứ ti các xứ Thái Nguyên.

Tháng 12 năm thứ hai niên hiệu Thống Nguyên (1523), vua lại sai ông làm tướng đem quân đi đánh giặc ở vùng Thái Nguyên. Nhân lúc về qua nhà vào ngày mùng 6 tháng 2 thì ông mất, hưởng thọ 53 tuổi.

dat-hoc-lien-ha-10-quan-tien-si-6.jpg Mỗi thôn làng của Liên Hà đều để lại những dấu tích khoa bảng nức tiếng một thời.

Tuy nhiên, một số nguồn sử liệu lại cho biết, Tiến sĩ Đỗ Túc Khang mất năm 1534. Khi nhà Mạc thay nhà Lê, Đỗ Túc Khang về nghỉ tại quê nhà, đồng thời tiến cử con gái Đỗ Thị Mỹ Mai thay mình dẹp loạn.

Bà Đỗ Thị Mỹ Mai là con gái út của Tiến sĩ Đỗ Túc Khang, từ nhỏ bà rất ham học, văn hay chữ tốt, lại giỏi võ nghệ. Năm Đình Hợi (1527), vừa tròn 20 tuổi, bà xin thay cha làm nhiệm vụ trấn dẹp các toán trộm cướp ở vùng Phổ Yên, Phú Bình (xứ Thái Nguyên), đem lại cuộc sống yên lành cho nhân dân.

Sau do tương quan lực lượng chênh lệch, bà phải lui quân. Giặc đuổi theo, đến cầu sông Trấn Giang, thế cùng, bà gieo mình tự vẫn khi mới 21 tuổi. Thương tiếc bà, nhân dân nhiều làng xã trong vùng đã lập đền thờ, hiện còn đạo sắc niên hiệu Duy Tân (1911), phong cho bà là “Diên Bình công chúa”, cho phép xã Thượng Dã, phủ Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên phụng thờ.

Tiến sĩ Đỗ Túc Khang có 4 người em đều là những bậc anh tài của đất nước, gồm Đỗ Đại Uyên - tục gọi là cụ nghè Me (làng Me, Bắc Ninh) đỗ Hoàng giáp, nay vẫn còn đền thờ tại quê hương. Đỗ Túc Khiêm đỗ Thám hoa, sau ngụ tại làng ở huyện Từ Liêm cũ. Đỗ Danh đỗ Tiến sĩ, sau làm quan đến chức Thượng thư, sau con cháu lập nghiệp tại thôn Tức Mạc, Nam Định (nay là Ninh Bình).

Người em thứ tư là Đỗ Viên Nghị được triều đình nhà Lê phong Phục tướng quân, Bắc quản đô đốc, Chánh quản thần vũ vệ, Xuyên đinh quang hầu. Gia đình ông về ở làng Bồng Sơn, tỉnh Thanh Hoá.

Theo dòng họ Đỗ đại tôn, hiện nay đền thờ bà Đỗ Thị Mai ở Phổ Yên, Thái Nguyên và nhà thờ Tiến sĩ Đỗ Túc Khang ở xã Liên Hà cũ - Lâm Thư mới (Hà Nội) đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trở thành những địa chỉ để con cháu dòng họ và thế hệ trẻ đến tưởng nhớ, học tập theo gương sáng tiền nhân.

Các thôn làng của xã Liên Hà cũ trong thời kỳ khoa bảng phong kiến, ngoài 10 vị đại khoa, riêng làng Hà Vĩ còn có 16 người đỗ Hương cống, nhiều người đỗ tiểu khoa (học vị Sinh đồ, Tú tài). Làng Đại Vĩ có 4 người đỗ Hương cống, nhiều người đỗ tiểu khoa, làng Hà Lỗ có 10 đỗ Hương cống, Cử nhân, nhiều người đỗ Sinh đồ, Tú tài.