Thế nhưng, theo thời gian, nhiều nơi đang dần biến mất, bị lấn át hoặc xuống cấp nghiêm trọng. Giữa nhịp sống hiện đại, việc bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể đang trở thành thách thức không nhỏ.
Tìm lại bóng dáng xưa
Khi bước chân vào một ngôi làng cổ, người ta không chỉ đi giữa những con đường quanh co hay lắng nghe tiếng gió thổi qua rặng tre mà còn chạm vào cả những lớp ký ức lâu đời được khắc ghi nơi nhà cổ, đình làng, giếng nước. Những công trình ấy không chỉ mang giá trị thẩm mỹ và kiến trúc, mà còn là biểu tượng của đời sống, nếp sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc người Việt.
Đình làng, vốn là trung tâm văn hóa tín ngưỡng và hành chính của cộng đồng, nơi diễn ra các lễ hội lớn nhỏ, bô lão hội họp, dân làng gửi gắm niềm tin tâm linh. Giếng làng, với vành đá rêu phong, là nơi gánh nước, rửa rau và để các bà các chị dừng chân trò chuyện. Nhà cổ, với mái ngói rêu phong, tường gạch đất nung, kết cấu gỗ lim vững chãi là không gian cư trú nhưng cũng là di sản sống, nơi tích tụ kinh nghiệm, văn hóa qua nhiều thế hệ.
Những hình ảnh đó từng hiện hữu ở hầu khắp làng quê Việt Nam. Thế nhưng, theo thời gian, dưới sức ép phát triển và đô thị hóa, nhiều nơi chỉ còn lại vết tích. Ký ức làng quê đang dần nhạt phai, và những “cột mốc” văn hóa vật thể của một thời đang đứng bên bờ quên lãng.
PGS.TS Nguyễn Đức Hòa, chuyên gia văn hóa làng Việt, nhận định: “Kiến trúc làng quê Việt Nam không phải chỉ là công trình vật chất, mà là một hệ sinh thái văn hóa kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên, tâm linh và cộng đồng. Mỗi chi tiết từ vị trí giếng, thế đất xây đình, cách đặt nhà đều phản ánh quan niệm sống của người xưa. Mất đi những yếu tố đó, là mất đi cả hệ giá trị”.

Xuống cấp, biến mất, và bị “nuốt chửng”
Làng cổ Đường Lâm (Hà Nội), từng được xem là một trong những ngôi làng tiêu biểu với hệ thống nhà cổ dày đặc, kiến trúc truyền thống đặc sắc, đang chứng kiến sự mai một từng ngày. Trong khoảng hai thập kỷ qua, hàng trăm căn nhà cổ nơi đây đã bị sửa sang, xây mới, thay đổi mái ngói bằng tôn lạnh, đập bỏ tường đá ong để xây gạch mới. Người dân sống trong nhà cổ nhưng lại không đủ điều kiện để duy tu, bảo dưỡng đúng cách. Nhiều người buộc phải phá dỡ để xây dựng nhà hiện đại phù hợp với nhu cầu sinh hoạt.
Câu chuyện ở Đường Lâm không phải là ngoại lệ. Tại làng Lại Thế (Thừa Thiên Huế), giếng làng từng là “trái tim” sinh hoạt của cả cộng đồng, giờ bị bỏ hoang, cỏ mọc um tùm. Tại Bắc Ninh và Nam Định, Thái Bình (cũ) - những vùng đất nổi tiếng với nhiều làng cổ - không ít đình làng rơi vào cảnh mục nát, bị lấn chiếm, hoặc xuống cấp nghiêm trọng do không có kinh phí trùng tu.
Theo thống kê của Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tính đến năm 2024, cả nước có hơn 4.000 ngôi đình làng, nhưng khoảng 60% trong số này đang ở tình trạng xuống cấp, trong đó có gần 1.000 công trình được xếp vào diện “có nguy cơ sụp đổ nếu không trùng tu kịp thời”. Đặc biệt, theo khảo sát của Viện Kiến trúc Quốc gia năm 2023 tại 10 tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ, chỉ còn dưới 30% số nhà cổ truyền thống giữ được nguyên trạng còn lại phần lớn bị phá dỡ hoặc cải tạo sai nguyên lý kiến trúc.

Theo thống kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, đến năm 2024, trong số hơn 6.000 giếng cổ từng tồn tại tại các làng Đồng bằng Bắc Bộ thì có đến gần 2.500 đã bị san lấp hoặc biến dạng hoàn toàn. Tương tự, nhiều đình làng xuống cấp nghiêm trọng hoặc bị thay thế bởi các công trình mới kém bản sắc.
Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều công trình kiến trúc truyền thống đang bị xóa nhòa bởi những nhà tầng hiện đại, hệ thống đường bê tông và xây dựng không theo quy hoạch. Việc cải tạo hoặc xây mới các đình làng, nếu không có tư vấn bảo tồn chuyên môn, còn khiến nhiều công trình mất hẳn dấu ấn kiến trúc truyền thống, trở thành những khối bê tông trát gạch men, mái tôn giả cổ. Không chỉ là sự xuống cấp vật lý, mà còn là sự mờ nhạt trong ý thức cộng đồng về việc bảo vệ những giá trị vốn được xem là linh hồn của làng quê.
Thực tế này gióng lên hồi chuông cảnh báo rằng, di sản kiến trúc làng Việt không thể tự tồn tại nếu thiếu sự can thiệp đúng lúc, đúng cách từ cộng đồng, chuyên gia và chính quyền địa phương. Theo các chuyên gia, không khó để chỉ ra nguyên nhân cho sự phai nhạt này. Ông Nguyễn Đức Tùng, chuyên gia bảo tồn di sản thuộc Hội Kiến trúc sư Việt Nam, cho rằng một trong những rào cản lớn trong công tác gìn giữ di sản hiện nay là cách nhìn nhận thiếu tích cực từ phía địa phương. “Nhiều nơi vẫn coi di sản là gánh nặng, thay vì xem đó là nguồn lực để phát triển”, ông nhận định.
Bên cạnh đó, việc thiếu cơ chế hỗ trợ cụ thể, nhất là với người dân đang trực tiếp sống trong vùng di sản, khiến họ không được khuyến khích gìn giữ mà chỉ nhìn thấy bất tiện. Đối với nhiều người, nhà cổ hay đình làng chỉ là “tài sản cũ” không còn giá trị sử dụng, cần được thay thế để phục vụ cuộc sống hiện đại. Một số nơi được công nhận là “làng cổ” nhưng người dân sống trong đó lại không có nguồn thu nhập từ di sản. Họ không được phép cải tạo nhà cửa theo ý muốn nhưng cũng không được hỗ trợ đúng mức, dẫn tới tâm lý oán thán hoặc tự ý phá bỏ.
Kết quả khảo sát do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội thực hiện năm 2022 cho thấy, hơn 70% người dân ở khu vực làng cổ chưa từng tiếp cận chính sách hỗ trợ bảo tồn. Đáng chú ý, chỉ 18% tin rằng việc giữ gìn nhà cổ có thể mang lại lợi ích kinh tế cho gia đình. Những con số này phần nào lý giải vì sao không ít hộ dân sẵn sàng phá bỏ nhà cổ để xây dựng công trình mới, tiện nghi hơn dù phải đánh đổi bằng giá trị lịch sử và văn hóa truyền đời.

“Sống lại” những ký ức xưa
Khi nhiều mái nhà xưa đang bị thay bằng bê tông cốt thép, giếng làng bị lấp để nhường chỗ cho sân chơi, nhà văn hóa mới… thì một bộ phận giới trẻ lại đang âm thầm góp sức gìn giữ những ký ức tưởng như chỉ còn trong sách vở.
Bên cạnh những mô hình thực địa, công nghệ số đang trở thành “đòn bẩy” cho bảo tồn hiện đại, dự án “Bản đồ đình làng Việt” do một nhóm sinh viên Đại học Kiến trúc Hà Nội thực hiện đã số hóa vị trí, ảnh chụp và tư liệu cơ bản của hơn 400 ngôi đình cổ trên cả nước, đưa lên nền tảng bản đồ mở. Trần Minh Khang (24 tuổi, Hà Nội), người đồng sáng lập dự án “Bản đồ đình làng Việt” cho biết, nếu ký ức làng quê mất đi, sẽ không chỉ mất đi một mái nhà, một bức tường gạch, hay một giếng nước mà là đánh mất gốc rễ văn hóa, nơi bắt đầu của lòng tự hào và bản sắc dân tộc.
“Vì thế chúng em đã khảo sát bằng điện thoại, định vị GPS các đình làng, chụp ảnh, thu thập tư liệu, sau đó đưa lên bản đồ số mở. Tới nay đã có hơn 400 đình làng được cập nhật. Có nơi sau khi thông tin lan tỏa, chính quyền đã vào cuộc trùng tu. Một số đình sau khi đưa lên mạng đã được tu sửa, thậm chí phục hồi cả lễ hội truyền thống. Một vành giếng rêu phong, một mái ngói cong vút, một tiếng mõ đình buổi sớm... từng là nhịp thở của làng quê Việt Nam. Giữ lại những thứ ấy không phải để sống trong quá khứ, mà để đi tiếp trong hiện tại với tâm thế vững vàng, có cội nguồn”.
Không chỉ dừng lại ở ghi nhận hiện trạng, nhiều nhóm sinh viên còn chủ động xây dựng các mô hình 3D phục dựng kiến trúc đình làng, giếng cổ, nhà cổ theo bản vẽ truyền thống. Một số nhóm khác chọn cách “kể lại ký ức” bằng podcast, video phóng sự, hoặc tour trải nghiệm ảo. Ký ức xưa được kết nối với thế giới số, sống lại theo cách riêng của thời đại.
Nguyễn Thùy An, sinh viên ngành Du lịch (TP Hồ Chí Minh), sáng tạo nội dung với chuỗi podcast “Giếng làng kể chuyện”, chia sẻ: “Mỗi giếng là một câu chuyện về làng, về nghề, về người. Chúng tôi đến từng làng quê, ghi lại lời kể của các cụ già, rồi chuyển thành podcast đưa lên Spotify, YouTube. Có clip đạt cả trăm ngàn lượt xem. Điều đó chứng tỏ di sản không hề nhạt nhẽo, nhàm chán mà vẫn hấp dẫn nếu được kể đúng cách”.
Anh Nguyễn Văn Tiên (1996), quê Hải Hậu, Ninh Bình nổi tiếng với nghề làm mô hình tiểu cảnh tái hiện nhà cổ, giúp nhiều người lưu giữ ký ức tuổi thơ. Cơ duyên đến với nghề bắt đầu từ một chuyến giỗ tổ ở Thái Bình (cũ), nơi anh bắt gặp ngôi nhà đất phủ rêu phong gợi nhớ quê xưa.
Không qua trường lớp, Văn Tiên tự học qua mạng, mày mò vật liệu và thử nghiệm không ngừng. Những ngày đầu gian nan, nhiều lần muốn bỏ cuộc, nhưng một lần đăng tác phẩm lên mạng xã hội đã giúp anh nhận được sự ủng hộ lớn, mở ra cơ hội làm nghề.
Ban đầu làm bằng nhựa, anh dần chuyển sang xi măng, ngói, đất nung để tăng tính chân thực. Mỗi mô hình được dựng từ ảnh thật hoặc ký ức khách hàng, với từng chi tiết nhỏ được chăm chút tỉ mỉ. Công việc không chỉ là nghề, mà còn là cách Văn Tiên cùng khách “giữ lại một miền ký ức không thể quên”.
Bên cạnh nghề làm mô hình mang lại thu nhập ổn định, điều khiến Văn Tiên tự hào nhất là được góp phần “giữ lại ký ức quê hương cho người khác”. Anh kể, từng chứng kiến khoảnh khắc xúc động khi một người con trao tặng cha mẹ mô hình căn nhà tuổi thơ, món quà khiến cả gia đình rơi nước mắt. Với anh, mỗi mô hình không chỉ là sản phẩm thủ công mà còn là cầu nối ký ức. Mỗi lần chia sẻ trên mạng xã hội, anh lại nhận được hàng triệu lượt tương tác và vô số lời nhắn nhủ từ những người chợt nhớ về mái ngói cũ, hàng rào tre, góc sân mùa thơ ấu…
Sự tham gia chủ động của thế hệ trẻ dù nhỏ, nhưng đang từng bước góp phần làm sống lại những giá trị tưởng như đã ngủ quên. Quan trọng hơn, đó không chỉ là hành động “giữ lấy cái cũ”, mà là cách để kết nối truyền thống với hiện tại, tạo cảm hứng và trách nhiệm công dân văn hóa trong thời đại số.