Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết, định hướng Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, kết nối trực tuyến với 34 tỉnh, thành phố - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Những dấu ấn nổi bật của chương trình giai đoạn I (2021-2025)
Tại Hội nghị toàn quốc ngày 13/8 tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025, định hướng giai đoạn 2026–2030, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung cho biết: Sau hơn ba năm triển khai, Chương trình 1719 đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần tạo nền tảng cho phát triển bền vững tại những khu vực đặc biệt khó khăn.
Dù chỉ chính thức triển khai từ cuối năm 2022, các dự án, tiểu dự án và chính sách hỗ trợ đã tác động rõ rệt đến đời sống kinh tế - xã hội tại vùng sâu, vùng xa. Chương trình tạo bước đột phá trong công tác giảm nghèo tại khu vực được xem là "lõi nghèo" của cả nước, với tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 3,4% mỗi năm.
Một trong những thành tựu nổi bật là hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 42.567 hộ, vượt 230% kế hoạch, giúp xóa nhà tạm, nhà dột nát sớm hơn 5 năm so với mục tiêu. Hàng trăm nghìn hộ được hỗ trợ các nhu cầu cấp bách như đất ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề, nước sinh hoạt, học chữ, cứu đói…
Cụ thể, 10.549 hộ có đất ở, 13.387 hộ được cấp đất sản xuất, 54.899 hộ được hỗ trợ chuyển đổi nghề.
Gần nửa triệu hộ được tiếp cận nguồn nước sinh hoạt. 403 dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị được triển khai với sự tham gia của 817 doanh nghiệp, hợp tác xã, góp phần thúc đẩy kinh tế cộng đồng.
Các mô hình nông nghiệp đã thu hút hơn 36.000 hộ dân tham gia.
Về y tế, hơn 3,88 triệu lượt dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được triển khai, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng. Chương trình cũng tích cực lồng ghép yếu tố giới, thúc đẩy vai trò của phụ nữ và trẻ em gái trong phát triển kinh tế hộ, góp phần xây dựng cộng đồng bình đẳng và bền vững.
Trong tổng số 9 nhóm mục tiêu, đã có 6 nhóm cơ bản đạt hoặc vượt kế hoạch, gồm: giảm nghèo, tăng thu nhập, giáo dục, đào tạo nghề, bảo tồn văn hóa và y tế. Đặc biệt, thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đạt 43,4 triệu đồng/năm – gấp 3,1 lần so với năm 2020, dự kiến đạt 45,9 triệu vào năm 2025 (tăng 3,3 lần). Tỷ lệ lao động dân tộc được đào tạo nghề đạt 54,8%, vượt mục tiêu đề ra.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định, những kết quả đạt được là minh chứng rõ ràng cho định hướng đúng đắn của chương trình, đồng thời tạo nền tảng và niềm tin vững chắc cho giai đoạn 2026–2030.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Những hạn chế, thách thức cần vượt qua
Tuy đạt nhiều kết quả tích cực, Báo cáo Tổng kết cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai Chương trình 1719. Đây là chương trình mục tiêu quốc gia đặc thù, triển khai tại các địa bàn khó khăn nhất cả nước, với nội dung rộng, quy mô lớn, liên quan nhiều ngành, lĩnh vực nhưng còn thiếu kinh nghiệm triển khai, nguồn lực còn phân tán.
Việc quản lý qua nhiều dự án, tiểu dự án, do nhiều bộ, ngành phụ trách, khiến công tác chỉ đạo, điều hành gặp khó khăn. Công tác chuẩn bị đầu tư của một số địa phương còn chưa sát thực tế, phải điều chỉnh nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân.
Bộ máy tổ chức thực hiện còn bất cập; phân cấp, phân quyền chưa triệt để; công tác tham mưu, quản lý còn lúng túng. Ứng dụng công nghệ trong quản lý, giám sát còn yếu; một số đơn vị chưa nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo, gây khó khăn trong tổng hợp, đánh giá.
Hiện còn 3/9 nhóm mục tiêu khó đạt vào cuối năm 2025, gồm: cải thiện hạ tầng xã hội, giảm số xã – thôn đặc biệt khó khăn và giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Định hướng Chương trình giai đoạn II: Cách mạng trong hành động
Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến cho rằng: "Đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi" không chỉ bao gồm người dân tộc thiểu số, mà cả người Kinh sinh sống tại khu vực này cũng cần được thụ hưởng chính sách. Ông đưa ra 3 kiến nghị quan trọng.
Thứ nhất, nghiên cứu việc tích hợp chương trình vào các chương trình khác. Đây là chính sách đặc thù, mang đậm nét chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nên dù tích hợp cũng phải có một hợp phần riêng, được ưu tiên và quan tâm đặc biệt.
Thứ hai, giai đoạn đầu tích hợp 118 chính sách thành 10 dự án. Tuy nhiên, việc duy trì cả 10 dự án khiến chương trình trở nên manh mún, thiếu tập trung. Do đó, cần tinh gọn, tránh dàn trải.
Thứ ba, phân cấp, phân quyền là yếu tố then chốt. Trong đó, những việc cấp dưới làm được thì cấp trên chỉ nên kiểm soát, giám sát. Về tài chính, cần đơn giản hóa: đầu tư xây dựng thì áp dụng theo quy định về đầu tư xây dựng; còn chi sự nghiệp thì tuân theo cơ chế chi ngân sách sự nghiệp, chỉ cần hướng dẫn bổ sung tính đặc thù.
Đồng chí Lâm Văn Mẫn, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Lâm Văn Mẫn cũng đề xuất một số định hướng cho giai đoạn 2026–2030:
Thứ nhất, các báo cáo giám sát của Quốc hội và Chính phủ đã chỉ ra nhiều bất cập về thủ tục, hướng dẫn và sự chồng chéo, nhất là sau sáp nhập cấp xã. Do đó, cần lồng ghép, tích hợp chỉ tiêu, chính sách để tinh gọn bộ máy và tăng hiệu quả thực thi chương trình.
Thứ hai, nội dung hoạt động nên tập trung vào những lĩnh vực cốt lõi như: đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu (đặc biệt ở các vùng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu); phát triển sản xuất, nông nghiệp, sinh kế; tạo việc làm, nâng cao thu nhập; gắn với đổi mới phương thức sản xuất và chuyển đổi số. Đồng thời, cần chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế cộng đồng. Các hoạt động bảo tồn văn hóa gắn với phát triển du lịch và nâng cao năng lực cộng đồng cũng cần được chú trọng, đặc biệt với các nhóm dân tộc rất ít người, sống ở vùng núi cao, biên giới.
Thứ ba, cần rà soát lại tính chất của từng nhóm chính sách để có cơ chế phân bổ vốn phù hợp. Các chính sách hỗ trợ trực tiếp đến người dân, nhất là trong sản xuất, nên chuyển thành vốn ưu đãi, thậm chí hỗ trợ không hoàn lại. Đồng thời, mở rộng chính sách tín dụng thông qua Ngân hàng Chính sách Xã hội.
Thứ tư, đề nghị nghiên cứu phân định lại vùng dân tộc thiểu số và miền núi để làm căn cứ áp dụng chính sách lâu dài, đặc biệt sau khi hoàn tất sáp nhập địa giới hành chính. Việc xác định vùng nên dựa trên mức độ khó khăn và điều kiện tự nhiên thay vì ranh giới hành chính cứng nhắc.
Đồng chí Đào Ngọc Dung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung đồng tình với các ý kiến trên và khẳng định, giai đoạn II cần điều chỉnh toàn diện cả về nội dung, phương thức tổ chức và cơ chế điều hành chương trình.
Chương trình cần tập trung giải quyết đồng bộ "5 nhất" – năm vấn đề nhức nhối nhất của vùng dân tộc thiểu số: hạ tầng yếu nhất, chất lượng nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội chậm phát triển nhất, khả năng tiếp cận dịch vụ thấp nhất và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Các dự án, tiểu dự án cần được thiết kế đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, tập trung vào 5 nhóm nội dung trọng tâm: Đầu tư xây dựng và hoàn thiện hạ tầng thiết yếu. Phát triển sản xuất, tạo sinh kế, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thu nhập. Phát triển nguồn nhân lực. Hỗ trợ nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn, đặc thù. Tăng cường công tác truyền thông, kiểm tra, giám sát và báo cáo.
Giai đoạn II sẽ áp dụng nguyên tắc: "Địa phương quyết – địa phương làm – địa phương chịu trách nhiệm"; Trung ương giữ vai trò điều phối, giám sát mục tiêu và hoàn thiện thể chế, chính sách. Hệ thống tổ chức thực hiện sẽ được tinh gọn, giảm đầu mối, phân công rõ ràng theo phương châm "6 rõ" như Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo: rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ kết quả.
Công tác lập kế hoạch cần được đặc biệt chú trọng, bảo đảm thực chất và hiệu quả. Việc rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu, nội dung phải bám sát mục tiêu Nghị quyết 88/2019/QH14 và 120/2020/QH14 của Quốc hội. Toàn bộ hệ thống chính sách và hướng dẫn phải đầy đủ, đồng bộ, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ làm, đảm bảo tính khả thi cao trong thực tiễn, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh.
Sơn Hào
Link nội dung: https://www.saigonmoi24.com/chuong-trinh-1719-giai-doan-ii-giai-quyet-5-van-de-nhuc-nhoi-nhat-a146827.html